Theo Đông y, nguyên nhân chính là do tâm hỏa cang thịnh và tỳ vị bị tích nhiệt.
Người bệnh có những vết viêm loét ở đầu lưỡi hoặc ở niêm mạc trong khoang miệng kèm theo viêm lợi, ngứa lợi, lợi có màu đỏ, hơi sưng nề, dễ chảy máu, người nóng, mất ngủ, tâm phiền, có những cơn bốc hỏa toát mồ hôi, ăn uống kém, táo bón kéo dài, căng thẳng thần kinh. Xin giới thiệu một số bài thuốc trị bệnh:
Nhiệt miệng do tâm hỏa cang thịnh: Người bệnh có những nốt loét ở đầu hoặc thân lưỡi, gây đau rát, xót, không ăn uống được vì đau, uống nước nguội thấy dễ chịu. Kèm theo đau đầu, người nóng, hay toát mồ hôi, đại tiện thường táo, tiểu tiện đỏ lượng ít, mất ngủ, nếu là nam giới dễ bị di hoạt tinh, cơ thể suy nhược. Phép trị là tả tâm hỏa, bổ thận thủy kèm chống viêm thanh nhiệt. Dùng một trong các bài:
Bài 1: cỏ mần trầu, bồ công anh, sâm đại hành mỗi vị 16g; rau diếp cá 20g; liên kiều, chi tử, sinh địa, đương quy, huyền sâm mỗi vị 12g; ngân hoa, nhân sâm, mơ muối mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Bài 2: cỏ mực 20g, rau má 20g, tang diệp 16g, cam thảo đất 16g, sài hồ 12g, thục địa 12g, hoàng liên 10g, hoàng bá 10g, trúc diệp 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
Bài 3: đào nhân, hồng hoa, phục thần mỗi vị 10g; mạch môn, hắc táo nhân, thiên môn, sa sâm mỗi vị 16g; bồ công anh 20g, đinh lăng 20g; bạch thược, đương quy, sinh địa, cát căn mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Sâm đại hành (củ của cây sâm đại hành). Cát căn và sâm đại hành là 2 vị thuốc trị nhiệt miệng rất hiệu quả.
Nhiệt miệng do tỳ vị bị tích nhiệt: Người bệnh có biểu hiện lợi sưng đau, dễ chảy máu, lưỡi đỏ, có những nốt loét trong khoang miệng, đau đớn không ăn uống được kèm theo đại tiện táo kết, bụng đầy trướng, hơi thở nóng, tâm rạo rực, thích uống đồ mát… Phép trị là thanh nhiệt lương huyết, chống viêm kết hợp dưỡng tâm tỳ. Dùng 1 trong các bài:
Bài 1: cát căn 20g, đinh lăng 20g; chi tử, liên kiều, sinh địa, huyền sâm, sài hồ mỗi vị 12g; sâm đại hành, mạch môn, thiên môn mỗi vị 16g; đào nhân, hồng hoa, trần bì mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Bài 2: liên kiều, hoàng bá, bạch thược, sinh địa mỗi vị 12g; cỏ mực 20g, cát căn 20g; ngân hoa, tri mẫu, hồng hoa, trần bì, đại táo, trúc diệp mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Bài 3: sinh địa, bạch thược, chi tử, huyền sâm mỗi vị 12g; đại táo 10g; cỏ mực, mã đề, trúc diệp, rau má, sa sâm, đinh lăng, lạc tiên mỗi vị 16g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Người bệnh nên kết hợp ăn uống các món sau giúp tăng hiệu quả điều trị:
Chè bí đỏ – đậu đen: bí đỏ 150g, đậu đen 80g, đường trắng vừa đủ. Bí đỏ gọt vỏ thái miếng to. Đậu đen vo sạch cùng bí đỏ cho vào nồi nấu thật chín mềm, thêm đường, múc ra bát, để nguội ăn. Công dụng: thanh nhiệt, bổ âm, mát huyết, chống viêm.
Canh rau cần – óc lợn: óc lợn 1 cái, táo tàu 10 quả, rau cần 100g, gia vị vừa đủ. Óc lợn và đại táo nấu trước cho chín mềm, sau đó cho rau cần đã rửa sạch thái ngắn vào, đun thêm một lát, nêm gia vị là được. Ăn trong bữa cơm. Công dụng: dưỡng não, bổ tâm tỳ, thanh nhiệt chống viêm, trừ phiền.