Hơn 30 năm cống hiến cho ngành răng hàm mặt

- 10 lượt xem - Tin tức

Cơ duyên với ngành răng hàm mặt

Trong căn phòng làm việc của mình, vẫn khuôn mặt hiền hiền, cởi mở, với tác phong thân tình rất thân thiện và gần gũi, PGS. Hải hào hứng kể cho tôi nghe về công việc của mình và đồng nghiệp, chia sẻ với tôi về những trăn trở của người thầy thuốc. Tôi cảm thấy, với ông, tình yêu dành cho nghề vẫn vẹn nguyên như ngày nào. Hãnh diện được nhà trường lựa chọn phân công theo ngành răng hàm mặt học tập và nghiên cứu, chàng sinh viên Trịnh Đình Hải không ngờ đó chính là bước ngoặt lớn của cuộc đời ông, là lúc số phận gắn sự nghiệp khoa học của ông với chuyên ngành răng hàm mặt.

TTND. PGS.TS. Trịnh Đình Hải.

TTND. PGS.TS. Trịnh Đình Hải.

Sinh ra và lớn lên tại vùng nông thôn nghèo xã Minh Quang, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp cấp III, cậu bé Trịnh Đình Hải ngày ấy đã xác định phải học tập để có một nghề. Với quyết tâm đó, chàng sinh viên Trịnh Đình Hải đã vượt qua muôn trùng trở ngại trong hoàn cảnh nước nhà đang rất khó khăn, tất cả đều tập trung cho việc giải phóng miền Nam. Anh đã từng chứng kiến cảnh bệnh tật nghiệt ngã cướp đi sinh mạng của bà con. Thương những người dân quê mình, anh đã hăng hái khăn gói lên đường từ Tam Đảo, Vĩnh Phúc ra Hà Nội mang theo khát vọng trở thành bác sĩ để chữa bệnh cứu người.

Khi mới tốt nghiệp bác sĩ nội trú, BS. Hải được phân công về công tác tại Bệnh viện Việt Đức, Phân viện Răng hàm mặt. Trong năm đầu công tác, BS. Hải đã được phân công làm Trưởng đoàn bác sĩ của Viện đi xây dựng mô hình nha học đường tại huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương (gồm 51 xã trên 31 vạn dân).

Ngay từ những năm đầu của thập niên 1990, trẻ em tuổi học đường huyện Tứ Lộc, Hải Dương được chăm sóc răng miệng toàn diện tại trường học. Mô hình nơi đây đã thu hút nhiều chuyên gia hàng đầu của Việt Nam và của Tổ chức Y tế Thế giới đến tham quan, tìm hiểu và chia sẻ như GS. Võ Thế Quang (nguyên Viện trưởng Viện Răng hàm mặt TP. Hồ Chí Minh), GS. Nguyên Văn Cát, GS. Trần Văn Trường (nguyên Viện trưởng Viện Răng hàm mặt Quốc gia), BS. Wong Hy Deon, phụ trách sức khỏe răng miệng của Tổ chức Y tế Thế giới. Năm 1992, BS. Hải được phân công làm Thư ký Chương trình Nha học đường, rồi đến năm 1996 là Phó Chủ nhiệm Nha học đường toàn quốc và ông đã có điều kiện đưa chương trình nha học đường phát triển.

PGS. Hải đang cấy ghép implant cho bệnh nhân.

PGS. Hải đang cấy ghép implant cho bệnh nhân.

Người nối nhịp cầu với hội nhập

Năm 2006, PGS. Trịnh Đình Hải được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Răng hàm mặt Quốc gia, nay là Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương Hà Nội. Ngay từ những ngày đầu nhận nhiệm vụ cũng là ngày ông bắt đầu với những trăn trở, ông quan tâm đến 3 vấn đề lớn: Làm sao để người bệnh có điều kiện được khám chữa các bệnh răng miệng thông thường; dự phòng các bệnh răng miệng cho trẻ em và cộng đồng mà hiện nay có đến 90% người dân có các bệnh răng miệng; triển khai các kỹ thuật cao tại bệnh viện để người bệnh không phải ra nước ngoài điều trị.

Về phòng bệnh, ông chia sẻ: “Chương trình Chăm sóc răng miệng cho trẻ em học đường (Nha học đường) đã được tổ chức ở nhiều địa phương. Hàng chục triệu trẻ em đã được chăm sóc dự phòng các bệnh về răng miệng tại trường học. Chương trình này đã mang lại hiệu quả lớn về phòng bệnh, kinh tế và xã hội”. Với thành công đó, năm 2011 Bệnh viện Răng hàm mặt TW Hà Nội đã được các đồng nghiệp quốc tế chọn đăng cai tổ chức Hội nghị Nha học đường châu Á lần thứ 6 tại Hà Nội.

PGS. Trịnh Đình Hải chính là người đặt nền móng xây dựng cho chương trình đưa muối flour vào cộng đồng và việc này sẽ giúp cho 70 – 80% người dân địa phương và nông thôn được hưởng quyền lợi. Lào Cai là địa phương đầu tiên của khu vực châu Á được sử dụng muối flour để dự phòng sâu răng. Năm 2011, ông đã thay mặt ngành răng hàm mặt Việt Nam chia sẻ với các đồng nghiệp quốc tế (trong đó có đại diện của Tổ chức Y tế Thế giới tại Thụy Sỹ và đại diện ngành nha khoa trên 20 nước) về Dự án “Đưa muối flour sử dụng để dự phòng sâu răng cho cộng đồng”. Năm 2012, ông đã được Tổ chức Y tế Thế giới mời làm chuyên gia đại diện cho khu vực châu Á cùng 6 đồng nghiệp các châu lục khác tới trụ sở Tổ chức Y tế Thế giới tại Geneve biên soạn bộ tài liệu “Giám sát bài tiết flour qua đường thận ở các cộng đồng sử dụng flour theo đường toàn thân”. Đây sẽ là tài liệu được sử dụng toàn cầu, phục vụ cho lĩnh vực nha khoa dự phòng.

Sau hơn 7 năm ông làm Giám đốc BV, hàng loạt các kỹ thuật mới tại bệnh viện được triển khai: Kỹ thuật vi phẫu ghép đoạn xương hàm, lấy xương mác cẳng chân tạo hình để thay thế xương hàm trong trường hợp cắt bỏ xương hàm do bị ung thư và các bệnh lý khác. Nhờ kỹ thuật vi phẫu nối các mạch máu nên phần xương ghép vẫn phát triển bình thường và có thể làm được phục hình răng. Nhờ kỹ thuật này, khuôn mặt bệnh nhân đã tàn phế nay được cải thiện, giúp họ tự tin hòa nhập với cộng đồng, trở lại cuộc sống bình thường. Đến nay, BV đã thực hiện trên 200 ca và kỹ thuật này đã trở thành kỹ thuật điều trị thường quy tại BV.

Phương pháp phẫu thuật chỉnh hình xương hàm mặt là biện pháp cưa cắt dịch chuyển các phần xương hàm mặt ở bệnh nhân có khuôn mặt bị biến dạng để cải thiện khuôn mặt; kỹ thuật vi phẫu thuật ghép phần mềm sàn miệng; các kỹ thuật cấy ghép nha khoa với ghép xương nhân tạo, xương tự thân, ghép xương khối, các kỹ thuật nâng xoang hàm phục vụ cấy ghép nha khoa; các kỹ thuật ghép mô mềm và ghép xương trong nha chu; các kỹ thuật tiên tiến trong nắn chỉnh răng, điều trị nội nha, phục hình răng… Nhờ những kỹ thuật cao này được áp dụng tại bệnh viện mà bệnh nhân được điều trị tốt, ít tốn kém, không phải ra nước ngoài điều trị.

Năm 2011, ông đã được bầu là Chủ tịch Hội răng hàm mặt Việt Nam. Với vị trí là Chủ tịch Hội Răng hàm mặt Việt Nam và Giám đốc Bệnh viện Răng hàm mặt đầu ngành, ông đã đưa ngành răng hàm mặt Việt Nam gắn kết với ngành nha khoa các nước trong khu vực và thế giới. Ngành răng hàm mặt Việt Nam đã có dịp hợp tác với các châu lục về phòng bệnh và nghiên cứu khoa học và bệnh viện ngày  càng có uy tín trong cộng đồng nha khoa quốc tế. Năm 2012, BV được chọn đăng cai tổ chức Hội nghị cấy ghép nha khoa châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 15 tại Việt Nam, đây là một trong các sự kiện nha khoa lớn nhất trong khu vực…

Ngoài công tác dự phòng các bệnh răng miệng, nghiên cứu khoa học và cập nhật kỹ thuật mới nhất phục vụ cho công tác điều trị, ông rất quan tâm đến các hoạt động nhân đạo, như phẫu thuật cho trẻ em có khuyết tật khe hở môi vòm miệng. Trẻ em có khuyết tật ở bất kỳ nơi nào trên cả nước, chỉ cần gọi điện tới BV là được đăng ký xếp lịch mổ miễn phí và được hỗ trợ một phần kinh phí ăn ở, đi lại.

…Và một hậu phương vững chắc

Trong câu chuyện với PGS. Hải,  tôi vẫn nhận ra ở ông có sự quyến rũ rất riêng với nghề BS răng hàm mặt, đó là những kiến thức sâu và sự nhạy cảm đến với từng ca bệnh. Bên cạnh đó, ông còn có cả một tập thể luôn đoàn kết, cống hiến hết mình cho ngành răng hàm mặt. Hơn 30 năm qua, ông miệt mài gắn bó, “vun đắp” cho ngành răng hàm mặt, phần thưởng lớn nhất chính là sự trưởng thành của các học trò. Gương mặt ông sáng ngời lên niềm kiêu hãnh khi kể cho tôi nghe về họ. Tôi thấy đối với họ, ông không chỉ dành tình cảm yêu thương của một người thầy, đồng nghiệp, mà còn trân trọng họ như một phần máu thịt của mình.

Trên hành trình thực hiện công việc cứu người, ông luôn có một hậu phương vững chắc, biết chia sẻ với ông về những khó khăn trong công việc, giúp ông thành danh trên con đường sự nghiệp, đó là bác sĩ tim mạch đang công tác tại Bệnh viện E, BS. Trịnh Bích Thủy – người đã cho ông một mái ấm gia đình thực sự, niềm an ủi lớn trong cuộc đời ông. Và niềm vui của ông được nhân lên gấp bội khi nói về người con trai lớn nhất của ông bà là Trịnh Hải Anh cũng là học trò và là đồng nghiệp của ông. Nhìn khuôn mặt ông mãn nguyện khi nói về người vợ thân yêu và các con, tôi càng hiểu vì sao ông lại có được niềm đam mê và thành công đến như vậy, bởi trên hành trình thực hiện công việc y đức của mình luôn có một hậu phương vững chắc là điểm tựa giúp ông thành công trên con đường sự nghiệp.  

 

Hơn 30 năm qua, PGS.TS. Trịnh Đình Hải đã có nhiều cống hiến đóng góp cho ngành răng hàm mặt Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế. Ông vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý:

Huân chương Lao động hạng 3 năm 2010.

Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2005.

Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế năm 2001, 2002, 2003, 2005, 2008, 2010, 2011, 2012.

Thầy thuốc Ưu tú năm 2004.

Thầy thuốc Nhân dân năm 2012.

 

           

Minh Anh

Back To Top